Vai trò không thể thay thế của đất hiếm trong an ninh kinh tế
Đất hiếm hay còn gọi là các nguyên tố đất hiếm (REE), có vai trò đặc biệt trong nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn, đặc biệt là công nghệ cao và năng lượng tái tạo. Chúng là thành phần không thể thiếu trong sản xuất thiết bị điện tử như điện thoại thông minh, máy tính, màn hình LCD, pin lưu trữ, tấm pin mặt trời…
Trong ngành quốc phòng và hàng không vũ trụ, đất hiếm được dùng dụng trong radar, hệ thống dẫn đường tên lửa, thiết bị nhìn đêm và động cơ phản lực. Đất hiếm cũng có vai trò quan trọng trong ngành năng lượng tái tạo khi sản xuất tua-bin gió, động cơ xe điện, giúp tăng hiệu suất và giảm kích thước thiết bị. Ngành y tế cũng cần đất hiếm để sử dụng trong máy chụp cộng hưởng từ (MRI), thuốc cản quang và các thiết bị chẩn đoán hình ảnh khác. Trong công nghiệp luyện kim và hóa dầu, đất hiếm dùng sản xuất hợp kim đặc biệt, chất xúc tác trong lọc dầu và xử lý khí thải.
Trên thế giới, nguồn đất hiếm vào khoảng 120 triệu tấn. Trong đó Trung Quốc là quốc gia có trữ lượng đất hiếm lớn nhất, với 44 triệu tấn. Lợi thế này khiến Trung Quốc đưa đất hiếm lên “bàn cân” thương mại với các quốc gia hàng đầu như Mỹ hay Nhật Bản. Giữa bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ – Trung kéo dài, mối quan tâm đất hiếm gia tăng, Trung Quốc đã hạn chế xuất khẩu đất hiếm để gây áp lực lên nước Mỹ.
Riêng Nhật Bản, nền kinh tế hàng đầu thế giới nhưng ít tài nguyên, nhất là đất hiếm, thì khó khăn này càng đẩy lên cao. Có thời điểm, các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản đã buộc phải gián đoạn sản xuất do thiếu nguồn cung. Năm 2010, khi một tàu cá Trung Quốc va chạm với tàu tuần tra Nhật Bản gần quần đảo Senkaku tranh chấp, Trung Quốc lệnh cấm xuất khẩu đất hiếm sang Nhật Bản.
Nhật Bản tìm đường tự chủ đất hiếm
Để giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc, Nhật Bản dự kiến bắt đầu thử nghiệm khai thác đất hiếm vào tháng 1/2026 tại đáy biển ngoài khơi Minamitorishima, vùng biển phía Đông Nhật Bản.

Các mỏ đất hiếm ngoài khơi Minamitorishima được phát hiện vào năm 2012, nằm ở độ sâu khoảng 6.000 mét. Các nhà nghiên cứu ước tính, trữ lượng có thể đáp ứng nhu cầu toàn cầu trong nhiều thế kỷ. Nội các Nhật Bản đã xây dựng Chương trình Thúc đẩy Đổi mới Chiến lược (SIP) với đơn vị giám sát dự án khai thác đất hiếm do Chính phủ đứng đầu. Theo SIP, các mỏ đất hiếm ngoài khơi nước này “có tiềm năng phát triển quy mô công nghiệp”. Dự kiến từ nay tới nửa đầu năm tài chính 2027, dự án sẽ đánh giá tính khả thi về mặt kinh tế sau khi khai thác thử nghiệm từ tháng 1/2026.
Các nhà khoa học sử dụng đường ống dài khoảng 5.500-6.000 mét để hút bùn giàu đất hiếm từ đáy biển, dự kiến từ tháng 5/2026. Sau đó, một thiết bị điều khiển từ xa do Na Uy sản xuất sẽ được chuyển vào tháng 8/2026 phục vụ quá trình khai thác. Nếu đúng tiến độ, bước tiếp theo sẽ là đưa thiết bị lên tàu nghiên cứu, sau đó là kiểm tra vận hành.

“Điều quan trọng là Nhật Bản phải tự chủ được nguồn cung ứng đất hiếm, sẵn sàng bất cứ lúc nào trong trường hợp nguồn cung từ nước ngoài bị gián đoạn”, Shoichi Ishii, giám đốc SIP nhận định.
Bên cạnh đó, Tập đoàn Nissan Motor và Đại học Waseda hiện đang hợp tác phát triển công nghệ tái chế đất hiếm. Liên minh đặt mục tiêu thương mại hóa công nghệ này vào năm 2030.
GS Kazuto Suzuki, Đại học Tokyo, chuyên gia an ninh kinh tế, cho biết, “Một số loại đất hiếm nặng, khan hiếm hơn và có giá trị hơn các loại đất hiếm nhẹ, chỉ có thể được khai thác ở Trung Quốc”. May mắn cho Nhật Bản khi các mỏ đất hiếm ngoài khơi Minamitorishima được cho là rất giàu các nguyên tố này. Tuy nhiên, việc khai thác và tinh chế chúng sẽ đòi hỏi chi phí vận hành tốn kém, cũng như công nghệ tiên tiến. “Chúng ta cần phát triển công nghệ cần thiết để đáp ứng những thách thức này”, GS Suzuki nói.
Nhật Bản vẫn mở rộng nguồn cung đất hiếm từ nước ngoài
Mặc dù Nhật Bản có nhiều chiến lược và kế hoạch đẩy nhanh tự chủ đất hiếm hơn các nước phương Tây, nhưng khoảng 60% lượng đất hiếm nhập khẩu của Nhật vẫn đến từ Trung Quốc. Vào tháng 7 vừa qua, Nhật Bản đã nhất trí với Liên minh Châu Âu (EU) về việc củng cố chuỗi cung ứng đất hiếm cho Nhật Bản, đồng thời xem xét việc khai thác chung.