Nghề đánh bắt cá trên bờ vực lao đao
Sinh sống ở quốc đảo, từ xa xưa, nghề đánh bắt cá đã trở thành ngành kinh tế chủ lực tại Nhật Bản. Nhưng đây lại là công việc cấm kỵ với nữ giới. Trong những chiếc thuyền ra khơi, chỉ có cánh mày râu. Quan niệm này dựa trên niềm tin rằng vị thần Funadama bảo hộ cho các tàu cá vốn là một nữ nhân, nên nếu thuyền bè có nữ ngư dân thì vị thần sẽ khó chịu, gây ra biển động và sản lượng đánh bắt kém.
Ngày nay, quan niệm có phần mê tín này đang dần phai mờ, dù nhiều người trong ngành đánh bắt cá vẫn e ngại tuyển dụng phụ nữ. Lý do còn bởi công việc nặng nhọc, không sạch sẽ và lại nguy hiểm giữa sóng nước mênh mông. Nhà vệ sinh trên tàu cũng không phù hợp với phụ nữ.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ngành gặp nhiều khó khăn, nhất là số lượng ngư dân ngày một giảm. Theo khảo sát cơ cấu ngành Thủy sản năm 2024 của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản Nhật Bản, có 114.820 người làm việc trong ngành từ 30 ngày trở lên trong năm qua. Con số này giảm 5,4% so với năm trước đó và chỉ bằng 40% so với 30 năm trước đó. Năm 1994, nước Nhật có 312.890 ngư dân.
Trong số đó, 44.840 ngư dân trên 65 tuổi, chiếm tỉ trọng lớn nhất. Ngư dân từ 50 tuổi trở lên chiếm khoảng 70% tổng số lao động trong ngành. Nhóm trẻ khỏe nhất, từ 15 đến 39 tuổi, chỉ có 20.980 người, chưa bằng một nửa số ngư dân trên 65 tuổi. Tỷ lệ giữ chân lao động trẻ cũng thấp. Đáng chú ý, chỉ có 11.890 nữ giới, chiếm vẻn vẹn 10% tổng số ngư dân. Chỉ 1.100 người trong số họ ở độ tuổi từ 15-39, còn những người trên 40 tuổi chiếm hơn 90%.
Theo Cơ quan Thủy sản, mỗi năm có khoảng 1.700-2.000 ngư dân mới được tuyển dụng, bao gồm cả những người mới tốt nghiệp THPT. Tuy nhiên, khoảng một nửa trong số họ bỏ việc trong 5 năm đầu.
Ngoài lý do công việc này rất vất vả, nhiều người không trụ lại vì thu nhập bấp bênh. Những người mới bám biển cũng thường gặp khó khăn để làm quen với nghề, hoặc bị các đồng nghiệp lớn tuổi trêu chọc, quấy rối. Ngoài ra, do đặc thù nghề phải bắt đầu công việc từ nửa đêm hoặc sáng sớm, lại hoạt động ngoài khơi khiến kết nối với cộng đồng lỏng lẻo, khó tìm kiếm bạn đời. Hầu hết ngư dân khó bắt sóng điện thoại di động trên biển, khiến nhiều ngư dân trẻ không thể chịu đựng được việc không có điện thoại hoặc kết nối Internet.
Một số ngư dân không phải quốc tịch Nhật, nhất là trong nghề đánh bắt cá ngừ, nhưng do đồng yên Nhật mất giá khiến ngư dân nước ngoài cảm thấy chán nản. Một lý do khác nữa là ngành này đỏi hỏi phải kiên trì làm việc, tích lũy kinh nghiệm trong nhiều năm mới có thể thành thục nghề biển.
Nhật Bản ngày càng chào đón nữ ngư phủ
Hồi cuối tháng 7, tại Tokyo diễn ra sự kiện tuyển dụng việc làm dành cho ngành đánh bắt cá. Điều ngạc nhiên là có rất nhiều ứng viên nữ. Ông Magami Atsuko, đại diện đơn vị tổ chức chương trình cho biết, gần đây, ngày càng nhiều phụ nữ tham dự sự kiện tuyển dụng của ngành đánh bắt cá. Nhiều người chưa từng có kinh nghiệm làm nghề và cũng không sinh ra từ làng chài, nhưng họ đang nghiêm túc cân nhắc việc chuyển đến sống tại các cảng cá. “Điều này trái ngược hoàn toàn với trước đây, hiếm khi phụ nữ Nhật ra khơi và cũng chỉ chỉ phụ việc cho chồng hoặc người thân”.

Sự kiện này nằm trong chuỗi chương trình thúc đẩy ngành đánh bắt cá của Chính phủ Nhật Bản, trọng tâm là hỗ trợ các nữ ngư dân. “Trước kia, rất ít công ty trong ngành chấp nhận nữ ngư dân, nhưng theo khảo sát trước sự kiện này, hơn một nửa số doanh nghiệp thủy sản sẵn sàng xem xét hoặc tích cực tuyển phụ nữ vào nghề”, ông Magami nói.
Kimijima Hiori, một nữ sinh cuối cấp tham dự sự kiện cùng cha, chia sẻ: “Em yêu biển cả và ngành đánh bắt cá”. Cô gái trẻ đã nhận được nhiều lời chào đón từ các đơn vị trong ngành, càng tiếp thêm can đảm và quyết tâm để cô hi vọng sẽ trở thành nữ ngư dân từ mùa xuân năm sau. Đến từ Saitama, một vùng đất không giáp biển, cô sẽ phải rời xa quê hương để theo đuổi sự nghiệp đánh cá. Dù vậy, cha cô vẫn ủng hộ nguyện vọng của con gái.

Nhiều nữ ngư dân yêu nghề đánh bắt cá
Urata Shizuku đang làm việc tại ngư trường Ajiro Gyogyo ở Atami, tỉnh Shizuoka. Là một nữ ngư dân, cô rời cảng từ trước khi bình minh, đều đặn sáu ngày mỗi tuần ra khơi giăng lưới. Sau khi thu lưới, cô phân loại và vận chuyển cá. “Giờ tôi đã quen với công việc này hơn, nhưng đây vẫn là nghề tốn nhiều sức lực nên đôi khi cũng cảm thấy khá vất vả”. Tuy vậy, cô yêu nghề và muốn ngày càng nhiều phụ nữ lập nghiệp bằng nghề cá.
Giống với Urata, cô Kanazawa Maki, nữ ngư dân thuộc công ty đánh bắt cá Haida Oshiki tại Owase, tỉnh Mie, dành nhiều tâm huyết với nghề. Tại một hội chợ việc làm, cô say sưa giới thiệu tỉ mỉ từng công việc, dụng cụ đánh cá, cũng như vô số loại cá, đặc biệt là loài cá mú vàng nổi tiếng của cảng Owase.
Niềm yêu thích cá từ nhỏ đã nuôi ước mơ giúp cô theo học ngành hải dương học ở trường đại học. Sau khi tốt nghiệp, cô từng có ý định gác ước mơ, một phần do cha mẹ kịch liệt phản đối. Dù làm việc tại một cửa hàng bách hóa, rồi chuyển tới một công ty vận tải biển, Kanazawa không bao giờ ngừng mơ về một ngày trở thành nữ ngư phủ. Tham gia nhiều sự kiện tìm kiếm việc làm nghề cá và các chuyến tham quan trải nghiệm tại nhiều cảng biển, cô tự nhủ bằng mọi giá sẽ thực hiện ước mơ. Hiện tại, cô đang học nghề ngư dân bước sang năm thứ ba.

Khoảng 4 giờ sáng, Kanazawa bắt đầu ra khơi, kéo những tấm lưới cố định dài 100 mét, sâu 60 mét. Việc kéo lưới được thực hiện bằng cẩu chuyên dụng trên tàu cá, nhưng với những con cá nặng tới 10 kg, cô phải tự tay kéo chúng ra khỏi lưới. Đây thực sự là một công việc nặng nhọc.
Kanazawa còn giúp công ty phát triển thương hiệu cá mú vàng mùa xuân, sử dụng phương pháp ikijime (giết cá ngay lập tức) cho phép cá giữ được độ tươi ngon tối đa, hàm lượng chất béo và hương vị đậm đà. Sự tận tụy của Kanazawa được công ty ghi nhận. Doanh nghiệp còn nỗ lực tạo môi trường làm việc hỗ trợ phụ nữ hơn, trong đó lắp đặt phòng vệ sinh nữ. Vào mùa thu năm ngoái, họ đã tuyển dụng nhân viên nữ thứ hai.
“Việc xây dựng thương hiệu cho công ty không chỉ tăng doanh thu, mà còn giúp người tiêu dùng nhận biết được cá chất lượng tốt và góp phần bảo tồn nghề cá. Tôi tin rằng những người phụ nữ tham gia đánh bắt cá như chúng tôi có thể thu hẹp khoảng cách giữa ngành công nghiệp đánh bắt tới bàn ăn”, cô nói.







